Thoát khỏi ung thư

Vắc xin ung thư liệu đã có chưa

Ung thư (cancer) là tên dùng chung để mô tả một nhóm các bệnh phản ánh những sự thay đổi về sinh sản, tăng trưởng và chức năng của tế bào. Các tế bào bình thường trở nên bất thường (đột biến) và tăng sinh một cách không kiểm soát, xâm lấn các mô ở gần (xâm lấn cục bộ) hay ở xa (di căn) qua hệ thống bạch huyết hay mạch máu. Di căn là nguyên nhân gây tử vong chính của ung thư. Bệnh ung thư có thể được giảm thiểu và kiểm soát qua việc áp dụng các chiến lược phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm ung thư. Nhiều bệnh ung thư có cơ hội chữa lành cao nếu được chẩn đoán ung thư sớm và điều trị đầy đủ. Một trong các biện pháp đó là “Vắc xin ung thư”.

Nội dung:

Hệ miễn dịch là gì?

Các tế bào ung thư có được hệ miễn dịch nhận ra không?

Vắc xin là gì?

Vắc xin ung thư là gì?

Vắc xin phòng bệnh ung thư hoạt động như thế nào?

Hoa Kỳ đã phê chuẩn loại vắc xin phòng bệnh ung thư nào?

Vắc xin điều trị ung thư làm việc như thế nào?

FDA đã phê chuẩn loại vắc xin điều trị ung thư nào?

Vắc xin ung thư được sản xuất như thế nào?

Tá dược nào được sử dụng cùng vắc xin ung thư?

Vắc xin ung thư có tác dụng phụ không?

Vắc xin điều trị có thể kết hợp với các thuốc điều trị ung thư khác không?

Cần nghiên cứu thêm những vấn đề gì để nâng cao khả năng của vắc xin điều trị ung thư?

Loại vắc xin ung thư nào đang được nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng?

Hệ miễn dịch là gì?

Hệ miễn dịch là mạng lưới phức tạp của các tế bào, mô và các bộ phận giúp bảo vệ cơ thể chống lại các bệnh nhiễm trùng và các bệnh khác. Vai trò của hệ miễn dịch trong việc bảo vệ chống lại các vi khuẩn gây bệnh từ lâu đã được công nhận. Các nhà khoa học cũng đã phát hiện ra rằng hệ miễn dịch có thể bảo vệ cơ thể chống lại các mối đe dọa từ các tế bào bị hư hỏng, bị bệnh, hoặc các tế bào bất thường, kể cả tế bào ung thư (1).

Các tế bào máu trắng, hay bạch cầu, đóng vai trò chính trong phản ứng miễn dịch. Những tế bào này thực hiện các nhiệm vụ để bảo vệ cơ thể chống lại các vi khuẩn gây bệnh và các tế bào bất thường. Một số loại bạch cầu tuần tra trong hệ thống tuần hoàn, tìm kiếm mầm bệnh từ bên ngoài vào và các tế bào bị bệnh, bị hư hỏng, hoặc các tế bào chết. Sau đó, những tế bào máu trắng này sẽ cung cấp mức độ bảo vệ miễn dịch chung hoặc đặc biệt cho từng loại bệnh. Một số loại bạch cầu khác, được gọi là các tế bào lympho, làm nhiệm vụ chống lại các mối đe dọa, ví dụ một loại vi khuẩn cụ thể hay một tế bào bị bệnh hoặc bất thường. Hai nhóm tế bào lympho quan trọng nhất thực hiện phản ứng miễn dịch là tế bào B và tế bào T.

Tế bào B sinh ra kháng thể, đó là các protein lớn được tiết ra, có thể bám vào, gây ức chế, và tiêu diệt mầm bệnh hoặc các tế bào bất thường. Các tế bào gây độc T, còn được gọi là các tế bào sát thủ T, giết chết các tế bào bị nhiễm bệnh hoặc bất thường bằng cách giải phóng các hóa chất độc hại hoặc thúc đẩy các tế bào tự hủy (quá trình apoptosis –tế bào chết theo chương trình).

Các tế bào lympho và bạch cầu có vai trò hỗ trợ nhau để đảm bảo rằng các tế bào B và tế bào sát thủ T thực hiện công việc hiệu quả. Những tế bào hỗ trợ bao gồm các tế bào hỗ trợ T và tế bào đuôi gai, sẽ kích hoạt tế bào B và tế bào sát thủ T, giúp chúng ứng phó với các mối đe dọa cụ thể.

Kháng nguyên là những chất sau khi xâm nhập vào cơ thể sinh vật sẽ được hệ miễn dịch nhận biết và đáp ứng, tức là sinh ra các kháng thể tương ứng có đặc tính kết hợp với kháng nguyên ấy. Chúng sẽ giúp hệ miễn dịch nhận dạng là “kẻ lạ” (còn gọi là không tự thân). Tế bào bình thường trong cơ thể có kháng nguyên tự thân. Kháng nguyên tự thân báo cho hệ miễn dịch là tế bào bình thường không phải là một mối đe dọa và cần được bỏ qua (2). Ngược lại, vi khuẩn được hệ miễn dịch coi là một mối đe dọa tiềm năng cần được phá hủy bởi vì mang tính “lạ” hoặc kháng nguyên không tự thân.

Các tế bào ung thư có được hệ miễn dịch nhận ra không?

Tế bào ung thư có thể thực hiện cả kháng nguyên tự thân và kháng nguyên liên kết ung thư. Các kháng nguyên liên kết ung thư đánh dấu  các tế bào ung thư là bất thường hoặc “lạ” và các tế bào sát thủ T có thể tạo ra phản ứng chống lại chúng (1-7). Kháng nguyên liên kết ung thư có thể là:

  • Kháng nguyên tự thân được thực hiện bởi số lượng tế bào ung thư lớn hơn so với tế bào bình thường, do đó hệ miễn dịch xem như “kẻ lạ”.
  • Kháng nguyên tự thân không được thực hiện bởi các mô trong các bệnh ung thư phát triển (ví dụ, kháng nguyên thường chỉ được thực hiện bởi các mô phôi thai nhưng thể hiện ở những bệnh ung thư trên người lớn) và, do đó, hệ miễn dịch coi như “kẻ lạ”.
  • Kháng nguyên mới được tạo ra (neoantigens), là kết quả của sự đột biến gen trong các tế bào ung thư và hệ miễn dịch chưa từng nhận biết.

Tuy nhiên, có một số yếu tố có thể gây khó khăn cho hệ miễn dịch nhận biết và tiêu hủy các tế bào ung thư như:

  • Nhiều kháng nguyên liên kết ung thư chỉ thay đổi một chút so với kháng nguyên tự thân nên hệ miễn dịch rất khó để nhận ra.
  • Tế bào ung thư có thể trải qua những thay đổi di truyền dẫn đến mất kháng nguyên liên kết ung thư.
  • Tế bào ung thư có thể tránh đáp ứng miễn dịch ung thư của tế bào sát thủ T. Kết quả là ngay cả khi hệ miễn dịch nhận dạng được bệnh ung thư phát triển như một mối đe dọa, thì các tế bào ung thư vẫn có thể thoát khỏi sự tấn công mạnh mẽ của hệ miễn dịch (8).

Vắc xin là gì?

Vắc xin là loại thuốc tăng cường khả năng miễn dịch tự nhiên để bảo vệ cơ thể chống lại “kẻ lạ”.

Khi một loại vi khuẩn truyền nhiễm xâm nhập vào cơ thể, hệ miễn dịch nhận dạng nó như “kẻ lạ”, phá hủy nó, và “nhớ” nó để tránh bị nhiễm trùng lại trong tương lai. Vắc xin tận dụng lợi thế của các phản ứng phòng thủ kiểu ghi nhớ này.

Hầu hết các loại vắc xin là phiên bản vô hại của các vi khuẩn. Chúng là các vi khuẩn bị chết hay đã bị làm cho suy yếu, hoặc là một phần của vi khuẩn không gây bệnh nhưng có thể kích thích một phản ứng miễn dịch chống lại các vi khuẩn đó. Sau khi được tiêm phòng, hệ miễn dịch phản ứng với chúng, loại bỏ chúng ra khỏi cơ thể, và ghi nhớ chúng. Ghi nhớ do vắc xin gây ra sẽ cho phép hệ miễn dịch nhanh chóng hành động bảo vệ cơ thể khi bị nhiễm khuẩn tương tự.

Vắc xin ung thư là gì?

Vắc xin ung thư là một dạng thuốc điều chỉnh đáp ứng sinh học. Loại thuốc này hoạt động bằng cách kích thích hoặc khôi phục khả năng của hệ miễn dịch để chống nhiễm trùng và bệnh tật. Có hai loại vắc xin ung thư:

  • Vắc xin phòng bệnh (phòng ngừa) được dùng để  ngăn ngừa ung thư ở những người khỏe mạnh.
  • Vắc xin điều trị được chỉ định để điều trị ung thư bằng cách tăng cường khả năng miễn dịch tự nhiên của cơ thể chống lại khối u. Vắc xin điều trị là một hình thức của liệu pháp miễn dịch.

Hiện nay ở Mỹ, hai loại vắc xin phòng bệnh ung thư có sẵn là vắc xin u nhú ở người và vắc xin virus viêm gan B- một loại vắc xin điều trị có sẵn đối với bệnh ung thư tuyến tiền liệt di căn.

Vắc xin phòng bệnh ung thư hoạt động như thế nào?

Vắc xin phòng bệnh ung thư nhắm đến mục tiêu là các tác nhân gây ra truyền nhiễm hoặc góp phần vào sự phát triển của bệnh ung thư (10). Chúng tương tự như vắc xin truyền thống, giúp ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm như sởi hoặc bại liệt, bằng cách bảo vệ cơ thể chống lại nhiễm trùng. Cả hai vắc xin phòng bệnh ung thư và vắc xin truyền thống đều dựa trên kháng nguyên được thực hiện bởi tác nhân gây bệnh và đây là mục tiêu tương đối dễ dàng cho hệ miễn dịch nhận ra.

Hầu hết các loại vắc xin phòng bệnh, trong đó có cả những vắc xin phòng virus gây ung thư (virus viêm gan B và u nhú ở người) sẽ kích thích sản xuất các kháng thể, bám vào mục tiêu cụ thể là các virus và ngăn chặn khả năng gây nhiễm trùng.

Hoa Kỳ đã phê chuẩn loại vắc xin phòng bệnh ung thư nào?

  • Vắc xin HPV: Bệnh nhiễm trùng dai dẳng với các loại HPV nguy cơ cao có thể gây ra ung thư cổ tử cung, ung thư hậu môn, ung thư hầu họng, ung thư âm đạo, âm hộ, ung thư dương vật. Ba loại vắc xin đang được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho phép sử dụng phòng ngừa nhiễm HPV là: Gardasil ®, Gardasil 9®, và Cervarix®. Gardasil và Gardasil 9 được chấp thuận cho sử dụng ở phụ nữ độ tuổi từ 9 đến 26 nhằm phòng chống thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo, và ung thư hậu môn do HPV gây ra; tiền ung thư cổ tử cung, tổn thương âm hộ, âm đạo, hậu môn; và mụn cóc sinh dục. Gardasil và Gardasil 9 cũng được chấp thuận cho sử dụng ở nam giới trong việc ngăn ngừa ung thư hậu môn do HPV gây ra, tổn thương tiền ung thư hậu môn, và mụn cóc sinh dục. Gardasil được chấp thuận cho sử dụng ở nam giới độ tuổi từ 9 đến 26, và Gardasil 9 được chấp thuận cho sử dụng ở nam giới độ tuổi từ 9 đến 15. Cervarix được chấp thuận cho sử dụng ở phụ nữ độ tuổi từ 9 đến 25 để phòng ngừa ung thư cổ tử cung do HPV gây ra.
  • Vắc xin virus viêm gan B (HBV): Khi nhiễm HBV mạn tính có thể dẫn đến ung thư gan. FDA đã phê chuẩn nhiều loại vắc xin phòng chống nhiễm HBV. Hai loại vắc-xin, Engerix-B và Recombivax HB, chỉ bảo vệ khỏi lây nhiễm HBV. Cả hai loại vắc xin trên được chấp thuận sử dụng cho các cá nhân thuộc mọi lứa tuổi. Một số loại vắc xin tổ hợp phòng chống đồng thời HBV và các virus khác. Twinrix phòng chống HBV và viêm gan siêu vi A. Pediarix phòng chống HBV, poliovirus, và các vi khuẩn gây bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván. Twinrix được chấp thuận sử dụng cho những người từ 18 tuổi trở lên. Pediarix được chấp thuận sử dụng cho ở trẻ có mẹ xét nghiệm âm tính với kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBsAg) và áp dụng cho trẻ từ 6 tuần tuổi đến 6 tuổi. Vắc xin HBV đầu tiên được FDA phê chuẩn vào năm 1981, và trở thành vắc xin phòng bệnh ung thư đầu tiên được phát triển thành công và đưa ra thị trường. Ngày nay, hầu hết trẻ em ở Mỹ được tiêm phòng viêm gan B ngay sau khi sinh (11).

(Nguồn ảnh: https://apps.nlm.nih.gov/againsttheodds/exhibit/preventing_disease/role_of_science.cfm)

Vắc xin điều trị ung thư làm việc như thế nào?

Vắc xin điều trị ung thư được sử dụng để điều trị khi khối ung thư đã phát triển. Chúng có thể làm cho tế bào ung thư chậm hoặc ngừng phát triển; hoặc làm khối u co lại; hoặc ngăn ngừa ung thư tái phát; hoặc loại bỏ các tế bào ung thư không bị tiêu diệt bằng những hình thức điều trị khác.

Vắc xin điều trị ung thư sẽ kích hoạt các tế bào gây độc T, chỉ đạo chúng nhận ra và chống lại tế bào ung thư, hoặc sản xuất kháng thể bám vào các phân tử trên bề mặt của các tế bào ung thư. Để làm được như vậy, vắc xin điều trị sẽ đưa vào cơ thể một hoặc nhiều kháng nguyên, thường là bằng cách tiêm, đây là cách tạo ra phản ứng miễn dịch hiệu quả trong việc hoạt hóa tế bào T, hoặc sản xuất kháng thể. Kháng thể nhận ra và gắn với kháng nguyên trên bề mặt của các tế bào ung thư, trong khi các tế bào T cũng có thể phát hiện các kháng nguyên ung thư bên trong các tế bào ung thư.

Việc sản xuất vắc xin điều trị hiệu quả là khó khăn và thách thức hơn vắc xin phòng ngừa ung thư (12). Để có hiệu quả, loại vắc xin điều trị ung thư phải đạt được hai mục tiêu. Đầu tiên, như vắc xin phòng ngừa, vắc xin điều trị ung thư phải kích thích phản ứng miễn dịch đặc hiệu chống lại các mục tiêu chính xác. Thứ hai, các phản ứng miễn dịch phải đủ mạnh mẽ để vượt qua những rào cản mà các tế bào ung thư sử dụng để bảo vệ mình khỏi bị tấn công bởi các tế bào sát thủ T.

Hình ảnh: Cơ chế hoạt động của vắc xin điều trị ung thư

(Nguồn ảnh: http://www.pharmaceutical-journal.com/news-and-analysis/features/attacking-cancer-are-therapeutic-vaccines-on-the-verge-of-fulfilling-their-potential/20069012.article)

FDA đã phê chuẩn loại vắc xin điều trị ung thư nào?

Vào tháng Tư năm 2010, FDA đã phê chuẩn vắc xin điều trị ung thư đầu tiên. Vắc xin sipuleucel-T (Provenge®), được chấp thuận sử dụng ở nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt di căn. Nó sẽ kích thích phản ứng miễn dịch với tuyến tiền liệt axit phosphatase (PAP) – một kháng nguyên được tìm thấy trên hầu hết các tế bào ung thư tuyến tiền liệt. Trong các thử nghiệm lâm sàng, sipuleucel-T kéo dài sự sống của người bị ung thư tuyến tiền liệt di căn thêm khoảng 4 tháng (13).

Không giống như một số loại vắc xin điều trị ung thư khác, sipuleucel-T được tùy chỉnh cho mỗi bệnh nhân. Chủng thuốc này được tạo ra bằng cách cô lập các tế bào đuôi gai của hệ miễn dịch (đây là tế bào trình diện kháng nguyên, APC) từ máu của bệnh nhân thông qua một thủ tục gọi là gạn bạch cầu (leukapheresis). Những tế bào này được gửi đến các nhà sản xuất vắc xin, và được nuôi cùng với một protein gọi là PAP-GM-CSF. Protein này gồm PAP liên kết với một protein gọi là nhân tố kích thích đại thực bào và bạch cầu hạt (GM-CSF). Các GM-CSF sẽ kích thích hệ miễn dịch và tăng cường trình diện kháng nguyên.

Tế bào APC nuôi với PAP-GM-CSF là thành phần hoạt động của sipuleucel-T. Các tế bào được trả lại cho bác sĩ điều trị của bệnh nhân và truyền vào bệnh nhân. Bệnh nhân được điều trị 3 đợt, thường là 2 tuần một đợt, với mỗi đợt điều trị, quá trình sản xuất tế bào phải giống nhau. Mặc dù cơ chế hoạt động chính xác của sipuleucel-T vẫn chưa được rõ ràng, người ta cho rằng APC cùng với PAP-GM-CSF kích thích các tế bào T của hệ miễn dịch tiêu diệt các tế bào khối u thể hiện PAP.

Trong tháng 10 năm 2015, FDA đã phê chuẩn liệu pháp  virus hủy u (oncolytic virus therapy) đầu tiên, sử dụng vi khuẩn talimogene laherparepvec (T-VEC, hoặc Imlygic®) để điều trị cho một số bệnh nhân có khối u ác tính di căn không thể phẫu thuật cắt bỏ. Ngoài làm phân giãn tế bào ung thư khi được tiêm trực tiếp vào khối u ác tính, T-VEC còn gây ra phản ứng ở các vị trí thương tổn không được tiêm. Điều này cho thấy T-VEC tạo ra một phản ứng miễn dịch kháng u tương tự như các loại vắc-xin chống ung thư khác (Đọc thêm bài: “Virus biến đổi gen tiêu diệt tế bào ung thư).

(còn tiếp)

Xem tiếp phần 2: Vắc xin ung thư – Phần 2

Nguồn: http://www.cancer.gov/about-cancer/causes-prevention/vaccines-fact-sheet

Dịch giả: Nguyễn Thị Hoài

 

Hình 1: Các bước phát triển của một phản ứng miễn dịch tế bào chống lại các kháng nguyên khối u liên kết.

Nguồn ảnh: http://www.nature.com/nrclinonc/journal/v11/n9/full/nrclinonc.2014.111.html

Vắc xin ung thư được sản xuất như thế nào?

Tất cả các loại vắc xin phòng ngừa ung thư được FDA chấp thuận cho đến nay đều sử dụng các kháng nguyên từ virus gây ra hoặc góp phần vào sự phát triển của khối u. Chúng là các kháng nguyên từ HBV và các loại cụ thể của HPV. Đây là các protein tạo nên bề mặt ngoài của virus. Do chỉ có một phần của những virus được sử dụng, nên các loại vắc xin không lây nhiễm và không thể gây bệnh.

Các nhà nghiên cứu cũng đang tạo ra phiên bản tổng hợp của kháng nguyên trong phòng thí nghiệm để sử dụng trong vắc xin phòng bệnh ung thư. Để làm được điều này, họ thường thay đổi cấu trúc hóa học của các kháng nguyên để kích thích phản ứng miễn dịch mạnh hơn phản ứng do kháng nguyên gốc gây ra.

Tương tự như vậy, vắc xin điều trị ung thư sử dụng các kháng nguyên liên kết ung thư hoặc những phiên bản đã được thay đổi (dạng biến tính) của chúng. Đến nay, kháng nguyên đã được sử dụng bao gồm protein, carbohydrate (đường), glycoprotein và glycopeptide (tổ hợp carbohydrate-protein), và gangliosides (tổ hợp carbohydrate-lipid).

Vắc xin điều trị ung thư cũng đang được phát triển bằng cách sử dụng các tế bào ung thư bị suy yếu hoặc đã chết mang một kháng nguyên liên kết ung thư đặc hiệu, hoặc các tế bào miễn dịch được thay đổi để giống như một kháng nguyên trên bề mặt của chúng. Những tế bào này có thể của chính bệnh nhân (gọi là vắc xin tự thân, chẳng hạn như với sipuleucel-T) hoặc từ một bệnh nhân khác (gọi là vắc xin đồng loại).

Một số vắc xin ung thư dùng trong bệnh giai đoạn cuối sử dụng virus, nấm men, vi khuẩn làm chất vận tải (chất mang – vật chủ trung gian) cung cấp một hoặc nhiều kháng nguyên vào cơ thể. Các vật chủ trung gian có thể tạo miễn dịch tự nhiên (có nghĩa là chúng có thể kích thích một phản ứng miễn dịch) nhưng được thay đổi để chúng không thể gây bệnh.

Các loại vắc xin điều trị ung thư đang được phát triển sử dụng các phân tử ADN hoặc ARN có chứa gen di truyền đối với các kháng nguyên liên kết ung thư. ADN hoặc ARN có thể được tiêm trực tiếp vào bệnh nhân tạo thành một vắc xin “axit nucleic trần”, hoặc có thể được cấy trên một loại virus vô hại. Sau khi các axit nucleic trần hoặc virus được tiêm vào cơ thể, ADN hoặc ARN sẽ vào các tế bào và bắt đầu sản xuất các kháng nguyên khối u. Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng các tế bào sẽ tạo đủ kháng nguyên liên kết khối u để kích thích một phản ứng miễn dịch mạnh.

Một số kháng nguyên liên kết ung thư khác cũng đang được thực nghiệm để sử dụng làm vắc xin điều trị ung thư. Một số các kháng nguyên được tìm thấy trên hoặc trong hầu hết các loại tế bào ung thư. Một số khác lại đặc trưng với từng loại ung thư cụ thể (1, 5, 6, 13, 16-19).

Tá dược nào được sử dụng cùng vắc xin ung thư?

Chất được thêm vào vắc xin để tăng cường khả năng tạo ra phản ứng miễn dịch chống ung thư được gọi là tá dược.

Tá dược sử dụng cho các loại vắc xin ung thư đến từ nhiều nguồn khác nhau. Các tá dược đó có thể là các vi khuẩn như vi khuẩn Bacillus Calmette-Guérin (BCG), các chế phẩm từ vi khuẩn như Detox B, hoặc chế phẩm sinh học khác chẳng hạn như KLH (keyhole limpet hemocyanin) – là một loại protein lớn do một loài nhuyễn thể biển sản xuất. Ngoài ra, một số thuốc sinh học như chất nhũ hóa dầu trong nước ISA-51 cũng được sử dụng làm tá dược. Cytokine tự nhiên hay tổng hợp cũng có thể được dùng làm chất tá dược. Cytokine tự nhiên là những chất được tạo ra bởi các tế bào máu trắng để điều chỉnh phản ứng miễn dịch. Một số cytokine tăng hoạt động của các tế bào B và tế bào sát thủ T, trong khi các cytokine khác lại ngăn chặn hoạt động của các tế bào này. Cytokine thường xuyên được sử dụng trong vắc xin điều trị ung thư hoặc dùng cùng với chúng bao gồm interleukin 2 (IL2, còn được gọi là aldesleukin), interferon alpha, và yếu tố kích thích quần thể bạch cầu hạt và đại thực bào (GM-CSF, còn được gọi là sargramostim).

Vắc xin ung thư có tác dụng phụ không?

Trước khi vắc xin được cấp phép, thì nó phải được  FDA kết luận là an toàn và hiệu quả. Vắc xin phòng ngừa hoặc điều trị bệnh ung thư có độ an toàn tương đương với các loại vắc xin khác. Tuy nhiên, tác dụng phụ của vắc xin ung thư có thể khác nhau tùy từng người.

Các tác dụng phụ thường gặp nhất của vắc xin ung thư là tình trạng viêm ở chỗ tiêm với các triệu chứng đỏ tấy, đau, ngứa, và đôi khi phát ban.

Đôi khi người ta có những triệu chứng giống như bị cúm sau khi tiêm như sốt, ớn lạnh, suy nhược, chóng mặt, buồn nôn hoặc nôn, đau cơ, mệt mỏi, đau đầu và khó thở. Huyết áp cũng có thể bị ảnh hưởng. Những tác dụng phụ thường chỉ kéo dài một thời gian ngắn do cơ thể đang phản ứng với chủng thuốc và tạo phản ứng miễn dịch, như khi tiếp xúc với virus.

Một số ít người sau khi tiêm gặp phải những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Tuy nhiên những vấn đề này có thể không phải chủng thuốc gây ra. Các vấn đề gặp phải là hen suyễn, viêm ruột thừa, viêm vùng chậu, và các bệnh tự miễn dịch nhất định như viêm khớp và bệnh lupus ban đỏ hệ thống.

Vắc-\ xin sử dụng các tế bào, virus cũng có thể có tác dụng phụ. Ví dụ, các tác dụng phụ nghiêm trọng của sipuleucel- T là nhiễm trùng gần chỗ tiêm và có máu trong nước tiểu.

Vắc xin cũng giống như các thuốc ảnh hưởng đến hệ miễn dịch, chúng có thể gây ra các tác dụng phụ đe dọa tính mạng. Ví dụ, đối với người quá mẫn cảm (dị ứng) với các thành phần vắc xin. Tuy nhiên, rất hiếm xảy ra các trường hợp như vậy.

Vắc xin điều trị có thể kết hợp với các thuốc điều trị ung thư khác không?

Có. Trong rất nhiều thử nghiệm lâm sàng, vắc xin điều trị ung thư đang được  kết hợp với các hình thức điều trị ung thư khác. Liệu pháp đã được kết hợp với các loại vắc xin điều trị ung thư bao gồm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, và một số hình thức của liệu pháp điều trị nhằm thúc đẩy phản ứng của hệ miễn dịch chống lại bệnh ung thư.

Một số nghiên cứu đã cho thấy rằng vắc xin điều trị ung thư có hiệu quả nhất khi được kết hợp với các hình thức khác của việc điều trị ung thư. Các nghiên cứu tiền lâm sàng và thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh rằng phương pháp xạ trị có thể nâng cao hiệu quả của vắc xin điều trị ung thư. Ngoài ra, trong một số thử nghiệm lâm sàng khác, vắc xin điều trị ung thư cũng tăng tính hiệu quả của phương pháp điều trị.

Các bằng chứng khác cho thấy việc phẫu thuật cắt bỏ khối u lớn có thể làm tăng hiệu quả của vắc-xin điều trị ung thư. Ở những bệnh nhân nặng, hệ miễn dịch có thể bị các khối u áp đảo. Phẫu thuật cắt bỏ khối u có thể giúp cơ thể phát triển phản ứng miễn dịch hiệu quả

Các nhà nghiên cứu cũng đang thiết kế các thử nghiệm lâm sàng để trả lời các câu hỏi như liệu vắc xin điều trị ung thư làm việc tốt nhất khi chúng được dùng trước, sau hay cùng lúc như phương pháp điều trị khác. Câu trả lời không chỉ cung cấp thông tin về cách tốt nhất để sử dụng vắc xin điều trị ung thư cụ thể mà còn cho thấy nguyên tắc cơ bản để định hướng các phương pháp điều trị kết hợp liên quan đến vắc xin trong tương lai.

Hình 2: Vắc xin tế bào ung thư GM-CSF và sự phong tỏa kháng thể CTLA-4 cho thấy tác dụng kháng u hiệp đồng.

Nguồn ảnh: http://www.nature.com/nrc/journal/v4/n1/fig_tab/nrc1252_F4.html

Cần nghiên cứu thêm những vấn đề gì để nâng cao khả năng của vắc xin điều trị ung thư?

Tiến bộ mới trong việc tìm hiểu làm thế nào các tế bào ung thư thoát khỏi sự nhận biết và tấn công của hệ miễn dịch đang đem lại cho các nhà nghiên cứu các kiến thức cần thiết để điều chế loại vắc xin điều trị ung thư có thể đạt được cả hai mục tiêu.

Hai lĩnh vực chính của nghiên cứu nhằm mục đích giải quyết vấn đề này. Một là liên quan đến việc xác định các kháng nguyên liên kết ung thư, hay kháng nguyên ung thư (neoantigens), có thể hiệu quả hơn trong việc kích thích phản ứng miễn dịch so với các kháng nguyên đã được biết đến. Ví dụ, kết quả thử nghiệm lâm sàng sử dụng vắc xin neoantigen tự thân với kháng nguyên đột biến có thể tạo ra vắc xin điều trị cho bệnh nhân bị u nguyên bào xốp và u ác tính. Hai là, phát triển các phương pháp tăng cường khả năng của các kháng nguyên liên kết ung thư để kích thích phản ứng miễn dịch. Ba là nghiên cứu xác định làm thế nào để kết hợp nhiều kháng nguyên trong một vắc xin điều trị ung thư để tạo ra phản ứng miễn dịch chống ung thư tối ưu.

Nâng cao sự hiểu biết của chúng ta về sự tương tác sinh học cơ bản giữa  tế bào miễn dịch và các tế bào ung thư là rất quan trọng cho việc phát triển vắc xin ung thư. Những nỗ lực nghiên cứu góp phần tạo ra các công nghệ mới nhằm quan sát hiện tượng này. Ví dụ, công nghệ hình ảnh mới cho phép các nhà nghiên cứu quan sát tế bào sát thủ T và các tế bào ung thư tương tác bên trong cơ thể.

Các nhà nghiên cứu cũng đang cố gắng để xác định các cơ chế mà các tế bào ung thư trốn tránh, ngăn chặn những phản ứng miễn dịch chống ung thư. Một sự hiểu biết tốt hơn về cách tế bào ung thư thao tác hệ miễn dịch có thể dẫn đến sự phát triển của loại thuốc ngăn chặn các quá trình, qua đó nâng cao hiệu quả của vắc-xin điều trị ung thư.

Ví dụ, một số tế bào ung thư sản xuất tín hiệu hóa học mà thu hút các tế bào máu trắng gọi là tế bào T điều hòa, hoặc regs T, đến xung quanh khối u. Tế bào T điều hòa sẽ giải phóng các cytokine ức chế hoạt động của các tế bào T sát thủ lân cận. Sự tổ hợp của vắc-xin điều trị ung thư với một loại thuốc có thể ngăn chặn sự bất hoạt của tế bào T sát thủ có thể nâng cao hiệu quả của vắc xin trong việc tạo tế bào T sát thủ đủ mạnh kháng u.

Các chất điều hòa kiểm soát miễn dịch cũng có thể cải thiện hiệu quả của vắc-xin ung thư. Những chất điều hòa nhắm mục tiêu đến cơ chế điều tiết miễn dịch được các tế bào ung thư sử dụng để tránh bị phá hủy, một trong đó là các protein kiểm soát miễn dịch như PD-1, được thể hiện trên bề mặt của các tế bào T. Liên kết của các PD1 với loại protein đối tác cụ thể (hay các ligand – phối tử), được gọi là PD-L1 và PD-L2, trên bề mặt của một số tế bào bình thường hoặc các tế bào ung thư tạo ra một tín hiệu “tắt” với các tế bào T nhằm không tạo phản ứng miễn dịch chống lại các tế bào đó. (Liên kết này giữ cho hệ miễn dịch không phản ứng thái quá đối với các tế bào bình thường và ngăn ngừa tự miễn dịch). Một số tế bào ung thư có liên kết PD-L1 ở mức độ cao, làm cho các tế bào T bị ức chế (đóng lại) và giúp các tế bào ung thư trốn tránh sự phá hủy của hệ miễn dịch. Các kháng thể ngăn chặn liên kết của protein kiểm soát miễn dịch với ligand của nó trên tế bào ung thư sẽ loại bỏ tín hiệu  “tắt” ra và cho phép phản ứng miễn dịch chống lại các tế bào ung thư.

Nhiều kháng thể đã được FDA chấp thuận để điều trị một số bệnh ung thư cụ thể và có những hứa hẹn trong điều trị các ung thư khác. Bởi vì các kháng thể này cho phép các tế bào T chống ung thư có hiệu quả hơn, người ta hi vọng nó sẽ nâng cao hiệu quả của vắc-xin ung thư.  Hiện nay các nhà nghiên cứu đang tiếp tục thử nghiệm trên động vật và thử nghiệm lâm sàng  bằng cách tổ hợp một vắc xin  với PD1 và PD-L1.

Một số loại vắc xin được chế tạo để điều trị bệnh ung thư cụ đang được phát triển. Bao gồm các loại vắc-xin tế bào đuôi gai cho di căn ung thư biểu mô tế bào thận, u nguyên bào xốp, và ung thư tuyến tiền liệt di căn kháng hormone; vaccine tế bào ung thư tự thân cho bệnh ung thư đại trực tràng và u lympho nang; vắc xin kháng thể anti-idiotype cho u lympho và một số khối u rắn; vắc xin thiết kế để kích thích phản ứng miễn dịch chống lại các kích thích tố cần thiết cho sự phát triển và tồn tại của khối u ác tính đường tiêu hóa; vắc xin đồng loại ung thư phổi; và một vắc xin ADN cho ung thư vú di căn.

Loại vắc xin ung thư nào đang được nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng?

Danh sách dưới đây là các bệnh ung thư đang là mục tiêu trong hoạt động phòng chống ung thư bằng vắc xin của Viện Nghiên Cứu Ung Thư Hoa Kỳ (NCI). Đây là các bệnh ung thư đã có kết quả thử nghiệm lâm sàng của NCI.

Các thử nghiệm lâm sàng của vắc xin điều trị ung thư bao gồm:

  • Ung thư bàng quang
  • U não
  • Ung thư vú
  • Ung thư cổ tử cung
  • Ung thư ruột kết
  • Hodgkin Lymphoma
  • Ung thư thận
  • Leukemia
  • Ung thư phổi
  • Melanoma
  • Nhiều Myeloma
  • Non-Hodgkin Lymphoma
  • Bệnh ung thư buồng trứng
  • Bệnh ung thư tuyến tụy
  • Ung thư tuyến tiền liệt
  • Các khối u rắn

Các thử nghiệm lâm sàng vắc xin phòng ngừa ung thư bao gồm:

  • Ung thư cổ tử cung
  • Các khối u rắn

(hết)

Nguồn: http://www.cancer.gov/about-cancer/causes-prevention/vaccines-fact-sheet

Thoát khỏi ung thư

Tự chữa khỏi ung thư, rất nhiều liệu pháp, phác đồ điều trị ung thư đã được áp dụng và gần đây Cần sa y tế đã được sử dụng như một liệu pháp điều trị ung thư vô cùng hiệu quả. Mời bạn đón đọc các bài viết về cách phòng tránh ung thư, bài thuốc hay chữa ung thư và các sử dụng tinh dầu CBD trong điều trị ung thư . CBD là một chiết suất từ cây gai dầu, hoàng toàn không gây hiệu ứng tâm lý và an toàn cho người bệnh.
Back to top button