Cây chàm mèo có tác dụng chữa 11 loại ung thư
Cây chàm mèo được sử dụng để chữa 11 bệnh ung thư, cây chàm mèo có tác dụng làm cho các tế bào ung thư tự chết
Chàm mèo, Chàm lá to – Strobilanthes cusia (Nees) Kuntze., thuộc họ Ô rô – Acanthaceae.
Năm 2014, trên Tạp chí Khám phá điện tử thuộc Sở Khoa học công nghệ TP HCM công bố kết quả một cuộc nghiên cứu đem lại hi vọng mới cho những người mắc bệnh ung thư bạch cầu dòng tủy và lympho.
Theo đó, PGS.TS Nguyễn Mạnh Cường cùng các cộng sự thuộc Viện Hóa học Các hợp chất thiên nhiên – Viện hàn lâm KH&CN Việt Nam đã công bố tìm ra quy trình tổng hợp và tinh chế hợp chất indirubin – 3′ – oxim từ cây chàm mèo.
Hợp chất này có tác dụng đặc trị đối với bệnh ung thư bạch cầu dòng tủy và lympho.
Ngoài ra chúng còn có tác dụng giúp ngăn ngừa và gây ra sự tự chết của nhiều dòng tế bào ung thư khác như ung thư bạch cầu dòng tủy và lympho, ung thư phổi, ung thư gan, ung thư dạ dày, u xơ tử cung, u xơ tuyến vú, u xơ tiền liệt tuyến
Indirubin – 3′ – oxim có thể ức chế ung thư di căn giúp kéo dài tuổi thọ và không gây tác dụng phụ.
Mô tả: cây chàm mèo
Cây nhỏ lưu niên, cao 40-80cm (có khi đến 2m); thân nhẵn, phân nhánh nhiều, phình lên ở các mấu. Lá mọc đối, thường mềm ỉu, hình trái xoan hay bầu dục thon, dài 10-13cm, gân phụ 6-7 cặp, mép có răng hay khía tai bèo, các lá cùng một đôi thường không bằng nhau. Hoa mọc so le hay mọc đối, xếp thành bông ít hoa; các bông này lại xếp thành chuỳ; lá bắc hình lá, nhẵn, lá bắc con hình sợi; đài cao 1cm, các lá đài nhọn; tràng hoa màu lam đến tím, cuống dài 3-3,5cm, phía trên loe ra, có 5 thuỳ bằng nhau, nhị 4; bầu không lông. Quả nang dài, không lông.
Mùa hoa quả tháng 11-2.
Bộ phận dùng: Lá – Folium Strobilanthis Cusiae, thường gọi là Mã lam; Bột chàm – Indigo naluralis, thường gọi là Thanh đại.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang ở các thung lũng ẩm ướt, các núi đá và được trồng lấy cành lá để nhuộm màu xanh chàm. Ở hầu hết các tỉnh vùng cao ở miền Bắc như Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Hà Bắc đều có trồng chàm mèo trong các vườn gia đình hay trên nương rẫy gần nguồn nước, ở miền Nam cũng có trồng ở Bình Định. Người ta trồng chàm mèo bằng cách vào tháng 3-4. Sau khi trồng được 6 tháng đã có thể thu hái lá. Dùng lá tươi để chế bột chàm; lá tươi ngâm nước ở 30oC trong 12 giờ cho lên men. Lọc men, lọc, kiềm hoá bằng vôi và khuấy liên tục 4-5 giờ. Lọc gạn lấy bột Chàm, ép kiệt nước, thái thành miếng, phơi trong mát đến khô. Bột Chàm tốt phải chứa 60-70% indigotin.
Thành phần hoá học: Lá Chàm mèo chứa 0,4-1% indican. Khi thuỷ phân, indican cho indoxyl và glucose. Khi bị oxy hoá, indoxyl cho indigotin. Indigotin có màu xanh lam sẫm. Còn có indirubin.
Tính vị, tác dụng: Chàm mèo và Thanh đại có vị đắng nhạt. tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, mát máu, tiêu ban mẩn, sưng viêm và cầm máu. Thanh đại tính hàn, như là chàm và cũng tác dụng thanh nhiệt, tán uất, lương huyết, giải độc. Người ta đã nghiên cứu tác dụng kháng nội tiết sinh dục nữ, gây sẩy thai, gây tăng co bóp tử cung một cách nhịp nhàng.
Công dụng cây chàm mèo
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Chàm mèo được dùng chữa trẻ em kinh sợ, cam nhiệt, sốt, sốt phát cuồng, sưng amydgal, nôn mửa, thổ huyết, phụ nữ rong kinh, rong huyết. Ngày dùng 4-6g cao lá trộn thêm đường, hoặc dùng 1-4g bột Thanh đại với nước. Dùng ngoài lấy cả cây Chàm mèo nấu cao đặc bôi chữa chàm chốc viêm lợi chảy máu mồm miệng lở loét, rắn độc và sâu bọ cắn.
Đơn thuốc: Tuệ Tĩnh đã dùng lá Chàm và Thanh đại để chữa một số bệnh sau:
1. Chữa uống thuốc quá liều lượng mà ngộ độc, buồn bực nguy cấp. Lá Chàm giã nhỏ, chế nước nguội, vắt lấy nước cốt uống vài bát.
2. Chữa đơn lở nổi bọng nước, đau nhức: Lá chàm giã nát đắp.
3. Chữa chảy máu mũi: bột Chàm, bồ hóng sao, tán bột lượng bằng nhau, uống mỗi lần 4g.
4. Chữa trẻ em cam răng, thối loét; dùng Thanh đại bôi khắp chân răng, mỗi giờ bôi một lần.
5. Chữa trẻ em sốt cao co giật, trợn mắt, hôn mê: Thanh đại hoà với nước cho uống, mỗi ngày 2-8g chia uống làm nhiều lần.
Viện Dược liệu đã bào chế viên Thanh đại từ cao khô lá Chàm sao để chữa cho phụ nữ bị rong kinh. Dùng viên thanh đại chứa 0,25g cao khô lá Chàm mèo, mỗi ngày uống 10 viên chia làm 2 lần. Uống từ thời điểm 5 ngày trước lúc bắt đầu có kinh nguyệt và uống liên tục 10 ngày. Uống nhắc lại như vậy vào tháng 2, thứ 3 hoặc lâu hơn, cho đến khi kinh nguyệt trở lại bình thường thì ngừng uống thuốc. Nếu lại tiếp tục uống kéo dài, kinh nguyệt có thể bị chậm lại quá mức bình thường.
Người ta cũng dùng cao Chàm mèo phối hợp với cây ích mẫu để gây sẩy thai ở giai đoạn sớm (thời kỳ đầu thai nghén) đạt kết quả 63%.
Cây chàm mèo một phát hiện mở ra chữa cho các bệnh nhân ung thư, nhất là bệnh ung thư máu, hay còn gọi là bệnh máu trắng
Trong thời gian gần đây rất nhiều người tìm mua cây chàm mèo để hỗ trợ chữa bệnh ung thư
Cây chàm mèo là loài thảo dược quen thuộc đối với các tỉnh vùng cao miền Bắc nhờ công dụng của mình trong việc chữa trị một số bệnh. Và việc tìm ra được hợp chất giúp phòng ngừa và hỗ trợ điều trị bệnh ung thư từ loài cây này đã mở ra hy vọng mới cho bệnh nhân.
Cây chàm mèo còn có tên khác là chàm lá to, là loại cây nhỏ cao 40-80cm (có khi đến 2m). Cây mọc hoang ở các thung lũng ẩm ướt, các núi đá và được trồng ở các tỉnh vùng cao ở miền Bắc như Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn… để lấy cành lá để nhuộm màu vải có màu xanh chàm.
Cây có thân nhẵn, phân nhánh nhiều, phình lên ở các mấu. Lá mọc đối, hình trái xoan hay bầu dục thon, mép có răng hay khía tai bèo, các lá cùng một đôi thường không bằng nhau. Hoa mọc so le hay mọc đối, xếp thành bông ít hoa; các bông này lại xếp thành chuỳ; đài cao 1cm, các lá đài nhọn; tràng hoa màu lam đến tím.
Theo y học cổ truyền, loài cây này có vị đắng nhạt, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, mát máu, tiêu ban mẩn, cầm máu… Bộ phận dùng làm thuốc của cây là lá và rễ, lá thu hái lúc giai đoạn bánh tẻ (không non quá hoặc già quá), đem về phơi khô.
Đông y nhìn nhận lá và rễ chàm mèo có vị đắng, tính hàn, quy vào 2 kinh can, vị. Nó có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lương huyết, dùng chữa các bệnh cấp tính như sốt cao, nhức đầu, miệng khát, phát ban, chảy máu cam, lỵ, mụn nhọt độc, mẩn ngứa, viêm họng, nhiễm khuẩn huyết, viêm amidan, viêm đường hô hấp. Bên cạnh đó, rễ chàm mèo (bản lam căn) còn dùng chữa viêm não truyền nhiễm, viêm não B, thương hàn, quai bị.
Lá của cây chàm mèo (Ảnh caythaoduoc)
Từ loài cây chàm mèo, một số bài thuốc thông dụng được dùng để chữa bệnh thường là:
– Chữa viêm amidan, sưng hạch ở cổ: Lá chàm mèo khô 15g, bồ công anh 15g; huyền sâm 12g. Sắc uống.
– Chữa viêm não, sốt cao, khát nước: Lá chàm mèo khô 15g (tươi 30g) kim ngân hoa 30g, thạch cao sống 20g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 – 3 lần.
– Chữa trẻ em bị cảm mạo dẫn đến các bệnh về hô hấp như viêm họng, viêm amidan, người khó chịu, sốt cao, miệng khát: Dùng lá chàm mèo khô 10g. Sắc uống, chia 2 lần trong ngày.
– Trường hợp bệnh nặng: Rễ chàm mèo 30g, hoàng cầm 15g, áp chích thảo 30g, xạ can 9g, quán chúng 12g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 – 3 lần.
– Chữa viêm họng, ban sởi, loét miệng, mẩn ngứa: Rễ chàm mèo 12g, hoàng bá 8g, kim ngân hoa 10g, đại hoàng 9g, cam thảo 5g. Sắc uống.
– Chữa cảm mạo phong nhiệt: Rễ chàm mèo 15g, đại thanh diệp 10g, cát cánh 10g, bạc hà 9g, sinh cam thảo 3g. Sắc lấy 200ml uống một lần ngày một thang, uống 2 – 3 thang.
– Chữa quai bị: Dùng rễ Chàm mèo 18g, xích tiểu đậu 15g, thanh bì 6g, kim ngân hoa 6g, cam thảo 3g. Sắc uống ngày một thang chia 2 lần, dùng 2 – 4 thang.
– Chữa bệnh sởi kết hợp với viêm phổi: Rễ chàm mèo 9g, kim ngân hoa 9g, thiên hoa phấn 3g, hạnh nhân 3g, huyền sâm 6g, mạch môn đông 3g, tang diệp 3g, tiền hồ 3g, cam thảo 1,5g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 – 3 lần, uống 3 – 4 thang.
– Chữa viêm gan truyền nhiễm thể hoàng đản cấp tính: Rễ chàm mèo 50g, kim tiền thảo 50g, sa tiền 20g, chỉ xác 20g, nhân trần 50g, hoàng cầm 25g, mộc hương 15g, mang tiêu (hòa sống) 15g. Sắc uống ngày một thang, liên tục 15 – 30 thang.
Hoa của cây chàm mèo (Ảnh afamily)
Năm 2014, tạp chí Khám phá điện tử thuộc Sở Khoa học công nghệ TP HCM đã công bố một kết quả nghiên cứu từ loài cây này đem lại cơ hội sống cho những người mắc bệnh ung thư bạch cầu dòng tủy và lympho. Cụ thể, quy trình tổng hợp và tinh chế hợp chất indirubin – 3′ – oxim từ cây chàm mèo đã được PGS.TS Nguyễn Mạnh Cường cùng các cộng sự thuộc Viện Hóa học Các hợp chất thiên nhiên – Viện hàn lâm KH&CN Việt Nam tìm ra.
Ngoài ra, hợp chất này còn có thể gây ra sự tự chết của nhiều dòng tế bào ung thư khác như ung thư phổi, ung thư gan, ung thư dạ dày, u xơ tử cung, u xơ tuyến vú, u xơ tiền liệt tuyến…
Trải qua nhiều thí nghiệm và nghiên cứu tiền lâm sàng, PGS.TS. Nguyễn Mạnh Cường đã thành công trong việc sản xuất ra sản phẩm VINDOXIM (tên loại thuốc từ hợp chất này), được Cục An toàn thực phẩm Bộ Y tế cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn thực phẩm chức năng, dùng để tăng cường miễn dịch, hỗ trợ phòng ngừa, điều trị ung thư.
Một số công ty dược quan tâm và đánh giá cao các kết quả nghiên cứu và triển vọng phát triển thành thuốc điều trị ung thư của hoạt chất INDIRUBIN – 3’ – OXIM và chế phẩm VINDOXIM. PGS.TS. Nguyễn Mạnh Cường cũng cho biết anh đang có kế hoạch phối hợp các các công ty dược trong nước, hoặc nước ngoài để sản xuất VINDOXIM.